Nhổ răng khôn là gì? Các công bố khoa học về Nhổ răng khôn

Nhổ răng khôn là quá trình lấy đi răng khôn (răng số 8) nằm ở phía sau của hàng răng cuối cùng trong hàng răng mọc tự nhiên. Răng khôn thường mọc từ cuối độ tuổ...

Nhổ răng khôn là quá trình lấy đi răng khôn (răng số 8) nằm ở phía sau của hàng răng cuối cùng trong hàng răng mọc tự nhiên. Răng khôn thường mọc từ cuối độ tuổi vị thành niên đến đầu độ tuổi trưởng thành, thường là từ 17-21 tuổi. Tuy nhiên, do không đủ không gian trong hàm, răng khôn thường gây ra các vấn đề như việc nảy lệch, gây đau, bóng răng, khó phục hồi răng khi bị tổn thương, hoặc gây những vấn đề về sức khỏe răng miệng khác. Do đó, nhiều người quyết định trong tiến trình nhổ răng khôn để tránh những vấn đề liên quan đến răng khôn.
Để trả lời chi tiết hơn, quá trình nhổ răng khôn bao gồm các bước sau:

1. Khám và chẩn đoán: Đầu tiên, một bác sĩ nha khoa sẽ tiến hành một cuộc khám và chụp X-quang để xác định vị trí và tình trạng của răng khôn. Nếu răng khôn gây ra vấn đề, bác sĩ sẽ đưa ra quyết định về việc nhổ.

2. Chuẩn bị trước quá trình nhổ: Nếu bác sĩ xác định răng khôn cần được nhổ, bước tiếp theo là chuẩn bị cho quá trình nhổ. Bác sĩ có thể gây tê toàn bộ hoặc gây tê cục bộ trong khu vực xung quanh răng khôn để làm giảm đau và đảm bảo an toàn trong quá trình nhổ.

3. Quá trình nhổ: Bác sĩ sẽ sử dụng các dụng cụ y tế như ráy răng và siêu âm để mở rộng khu vực và loại bỏ mô mềm xung quanh răng khôn. Sau đó, bác sĩ sẽ dùng cái kìm hay dao nhọn để nhổ răng khôn ra khỏi hàm.

4. Hồi phục sau nhổ răng khôn: Sau khi răng khôn đã được loại bỏ, vùng xung quanh có thể có sự viêm nhiễm và sưng tấy. Bác sĩ có thể cho bệnh nhân uống thuốc giảm đau và sử dụng các biện pháp chăm sóc theo hướng dẫn để giảm đau và hỗ trợ quá trình phục hồi. Thời gian hồi phục cụ thể sẽ khác nhau tùy thuộc vào từng trường hợp.

Quá trình nhổ răng khôn thường được thực hiện bởi bác sĩ nha khoa chuyên môn hoặc nha sĩ có kinh nghiệm. Trước khi quyết định nhổ răng khôn, việc tham khảo ý kiến bác sĩ là rất quan trọng để xác định liệu việc nhổ răng khôn có cần thiết hay không và để lựa chọn phương pháp phù hợp nhất.
Quá trình nhổ răng khôn có thể được thực hiện trong phòng khám nha khoa hoặc bệnh viện. Dưới đây là các bước chi tiết:

1. Chuẩn bị trước quá trình nhổ răng: Trước khi thực hiện nhổ răng khôn, bác sĩ sẽ chuẩn bị bằng cách kiểm tra sức khỏe tổng quát và kiểm tra răng miệng để đánh giá tình trạng của răng khôn và xác định tình trạng chung của răng miệng và hàm. Nếu cần thiết, một loạt x-quang sẽ được thực hiện để xem rõ hơn vị trí và hình dạng của răng khôn.

2. Gây tê: Vùng xung quanh răng khôn và dây thần kinh sẽ được gây tê bằng một loại thuốc tê tại chỗ, có thể là gây tê cục bộ hoặc gây tê toàn bộ, nhằm làm giảm đau và tăng sự thoải mái cho bệnh nhân trong quá trình nhổ.

3. Khai phá mô xung quanh: Sau khi gây tê, bác sĩ sẽ sử dụng các dụng cụ để mở rộng khu vực xung quanh răng khôn, chẳng hạn như quần thể và đèn chiếu sáng để tiếp cận rễ răng.

4. Phân giải răng khôn: Bác sĩ sẽ sử dụng các công cụ như cái kìm, dao cao cấp hoặc siêu âm để tách răng khôn từ xương và lợi dương xung quanh. Trong một số trường hợp, răng khôn phải được phân tách thành các phần nhỏ hơn để thuận tiện cho việc loại bỏ.

5. Loại bỏ răng khôn: Khi răng khôn đã được phân giải và rời xa xương và mô xung quanh, bác sĩ sẽ sử dụng các dụng cụ như ráy răng và cái kìm để nhổ răng khôn ra khỏi hàm. Nếu răng khôn bị ảnh hưởng bởi xương quá nhiều hoặc bị nằm ngang, có thể cần phải làm một cắt mở nhỏ trong nướu để tiếp cận răng.

6. Sửa chữa và dọn sạch vết thương: Nếu cần thiết, bác sĩ cũng có thể sửa chữa các vết thương hoặc đường cắt bằng cách sử dụng các công cụ và mũi chỉ phẫu thuật. Sau đó, vùng xung quanh răng khôn sẽ được dọn sạch và băng đĩa sẽ được sử dụng để giữ sạch vùng sau quá trình nhổ.

Sau quá trình nhổ, bác sĩ sẽ cung cấp hướng dẫn về cách chăm sóc sau nhổ, bao gồm việc sử dụng thuốc giảm đau, rửa miệng bằng dung dịch muối sinh hoặc nước muối, và hạn chế thức ăn cứng và nghiến nát trong một thời gian để tránh gây tổn thương cho vùng sau khi nhổ. Thời gian hồi phục hoàn toàn có thể kéo dài từ vài ngày đến một tuần, tùy thuộc vào mức độ phức tạp của quá trình nhổ và sự phục hồi của từng bệnh nhân.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nhổ răng khôn":

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NHỔ RĂNG KHÔN DƯỚI CÓ SỬ DỤNG LASER CÔNG SUẤT THẤP TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ NĂM 2020-2022
  Đặt vấn đề: Dựa trên những đặc tính của laser trên mô sống, người ta tiến hành các nghiên cứu ứng dụng liệu pháp laser công suất thấp sau phẫu thuật răng khôn nhằm kiểm soát tình trạng sưng, đau, khít hàm. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới có sử dụng laser công suất thấp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 60 bệnh nhân trên 18 tuổi có răng khôn dưới mọc kẹt có chỉ định nhổ phẫu thuật. Loại trừ các bệnh nhân có bệnh toàn thân, chống chỉ định phẫu thuật. Mỗi bệnh nhân được chiếu laser diode trong miệng cách ổ răng 1cm và ngoài mặt tại vị trí bám tận cơ cắn (bước sóng 810 nm, công suất 0,5W, kích thước đầu chiếu 400µm) ngay sau phẫu thuật. Mỗi vị trí được chiếu 30 giây, lặp lại một lần sau 30 giây. Ghi nhận mức độ sưng, đau, khít hàm sau 1, 2, 7 ngày. Kết quả: Đa số bệnh nhân đau nhiều trong 6 giờ đầu sau khi hết tê môi, giảm đáng kể vào ngày 1 (81,7% đau ít), 90% không đau vào ngày 7. Trung bình cần dùng 4 viên thuốc giảm đau và ngưng thuốc trong 3 ngày đầu. Mức độ sưng mặt và khít hàm thay đổi đáng kể vào ngày 1 và 2 sau phẫu thuật (p < 0,05) và trở về gần như bình thường sau 7 ngày. Kết luận: Laser công suất thấp có hiệu quả trong việc kiểm soát mức độ sưng, đau, khít hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn dưới, đặc biệt là giảm đau.
#Laser công suất thấp #răng khôn mọc kẹt #diode laser #phẫu thuật
KẾT QUẢ NHỔ RĂNG KHÔN GÂY MÊ TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 521 Số 2 - 2022
Nghiên cứu cắt ngang trên 60 bệnh nhân để đánh giá kết quả sau điều trị của nhổ răng khôn gây mê tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2022. Kết quả: Trên 95% bệnh nhân có lo lắng ít và vừa trước phẫu thuật. Về triệu chứng sưng đau, đa số sưng đau ít (trên 90%), sau 1 ngày cũng như 3 ngày hậu phẫu. Đánh giá về các triệu chứng khác: tê bì hết hoàn toàn sau 3 ngày theo dõi, không có trường hợp nào sốt. 100% hình thành cục máu đông trong ngày đầu tiên. Tuy nhiên còn một sô trường hợp gỉ máu nhẹ. Kết luận: Đa số bệnh nhân nhổ răng khôn gây mê tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội có kết quả tốt, ít biến chứng
#Nhổ răng khôn #răng số 8 #gây mê #bệnh viện đại học Y Hà Nội
KẾT QUẢ NHỔ RĂNG KHÔN GÂY TÊ TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 521 Số 2 - 2022
Nghiên cứu cắt ngang trên 60 bệnh nhân để đánh giá kết quả sau điều trị của nhổ răng khôn gây tê tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2022. Kết quả: Các bệnh nhân trong nghiên cứu chủ yếu có mức độ lo lắng ít và trung bình trước phẫu thuật. Ít hơn 10% số bệnh nhân có triệu chứng chảy máu và choáng ngất sau phẫu thuật. Sưng đau nhẹ và vừa trong ngày đầu và ngày thứ 3 chiếm trên 90%. 8,33% bệnh nhân có tê bì trong ngày thứ 3, 6,67% có chảy máu và 16,67% hạn chế há miệng sau 3 ngày phẫu thuật. Kết luận: Đa số các bệnh nhân phẫu thuật gây tê nhổ răng khôn tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội có kết quả tốt, sưng đau ít và hạn chế biến chứng.
#Nhổ răng khôn #răng số 8 #gây tê #bệnh viện đại học Y Hà Nội
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA THUỐC TÊ ARTICAINE 4% TRONG PHẪU THUẬT NHỔ RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của thuốc tê Articaine 4% trong phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới (PTNRKHD). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc trên 60 bệnh nhân (BN) gây tê bằng thuốc tê Articaine 4% trong PTNRKHD tại Bộ môn - Khoa Răng miệng, Bệnh viện Quân y 103 từ tháng 01/2022 - 8/2022. Kết quả: Liều dùng trung bình của thuốc tê Articaine 4% (tính theo mL) của là 3,47 ± 0,28 mL, tính theo mg là 138,83 ± 11,36 mg; thời gian gây tê trung bình là 2,32 ± 1,02 phút. 93,3% BN gây tê bằng Articaine không phải dùng liều bổ sung, mức độ đau chung (theo VAS) trong toàn bộ quá trình phẫu thuật ở nhóm Articaine là 0,90 ± 1,04 điểm. Kết luận: Articaine 4% là thuốc tê cho hiệu quả gây tê nhanh, tỷ lệ phải gây tê bổ sung thấp và giảm đau có hiệu quả trong và sau PTNRKHD.
#Articaine 4% #Phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới
KẾT QUẢ LÀNH THƯƠNG CÓ SỬ DỤNG NƯỚC SÚC MIỆNG DR.ECA SAU PHẪU THUẬT NHỔ RĂNG KHÔN ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ BẰNG THANG ĐIỂM IPR
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Mô tả tình trạng lành thương sau phẫu thuật nhổ răng khôn được hướng dẫn sử dụng nước súc miệng Dr.ECA bằng thang điểm IPR. Kết quả được đánh giá tại 2 thời điểm: ngày thứ 5 sau nhổ răng (tương ứng với giai đoạn viêm) và ngày 14 sau nhổ răng (tương ứng với giai đoạn tăng sinh). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân đến khám sức khỏe răng miệng tại Khoa Răng hàm mặt, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Trên lâm sàng và phim XQ được chẩn đoán răng khôn hàm dưới thuộc nhóm II theo phân loại Parant, được mời vào nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang, tiến cứu, lựa chọn mẫu thuận tiện. Cỡ mẫu nghiên cứu N=60. Kết quả: Trung bình điểm lành thương ở giai đoạn viêm trong nghiên cứu là 6,82±1,03 (điểm tối đa là 8) phạm vi của nghiên cứu (4-8). Trung bình điểm lành thương ở giai đoạn tăng sinh trong nghiên cứu là 4,68±0,5 (điểm tối đa là 5) phạm vi của nghiên cứu (3-5). Tại thời điểm ngày thứ 5 sau nhổ răng, bênh nhân được đánh giá lành thương tốt là 95 %; mức độ lành thương trung bình là 5%; không ghi nhận có tình trạng lành thương kém. Tại thời điểm ngày thứ 14 sau nhổ răng, mức độ lành thương tốt là 98,33%; lành thương mức độ trung bình chiếm 1,67% và không ghi nhận trường hợp nào có tình trạng lành thương kém. Tại hai thơi điểm đánh giá tỉ lệ lành thương tốt giảm dần theo lứa tuổi và tỉ lệ lành thương ở nam giới tốt hơn ở nữ giới, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Sử dụng nước súc miệng Dr.ECA có hiệu quả lành thương tích cực. Tỉ lệ lành thương tốt tại thời điểm ngày thứ 5 sau phẫu thuật nhổ răng khôn là 95%. Tỉ lệ lành thương tốt tại thời điểm ngày thứ 14 sau phẫu thuật nhổ răng khôn là 98,33%. Không nhận thấy sự khác biệt về mức độ lành thương theo độ tuổi và theo giới. Thang IPR mô tả chi tiết tổn thương trong miệng theo các giai đoạn lành thương giúp phát hiện sớm và tránh bỏ sót các diễn biến bất thường của người bệnh.
#Thang IPR #nước súc miệng Dr.ECA #răng khôn #lành thương
NGHIÊN CỨU TÌNH TRẠNG ĐỘT BIẾN T790M TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN MUỘN KHÁNG ĐIỀU TRỊ ĐÍCH EGFR THẾ HỆ 1, 2
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá tỷ lệ đột biến T790M và phân tích mối liên quan trên bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn tiến triển sau điều trị thuốc kháng tyrosine kinase (TKI) EGFR thế hệ 1, 2 tại bệnh viện K từ 01/2017 đến 05/2022. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu kết hợp tiến cứu 85 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn kháng điều trị đích EGFR thế hệ 1, 2 chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện K từ 01/2017 đến 05/2022. Kết quả: Tỷ lệ đột biến T790M thứ phát gặp 46/85 bệnh nhân nghiên cứu (chiếm 54,1%). Tỷ lệ đột biến T790M cao hơn ở nhóm thời gian sống thêm bệnh không tiến triển > 6 tháng, tuy nhiên khác biệt có ý nghĩa thống kê. Không có mối liên quan giữa tỷ lệ đột biến T790M thứ phát và các yếu tố nhóm tuổi, giới tính, di căn não, loại TKIs, loại đột biến EGFR. Kết luận: Tỷ lệ đột biến T790M thứ phát gặp 54,1% trên bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ có đột biến EGFR điều trị bước 1 kháng tyrosine kinase thế hệ 1, 2.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ #kháng TKIs #T790M
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ LỆCH LẠC KHỚP CẮN LOẠI I ANGLE, RĂNG CHEN CHÚC BẰNG HỆ THỐNG MẮC CÀI TỰ BUỘC VÀ DÂY CUNG MỞ RỘNG SANG BÊN, KHÔNG NHỔ RĂNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 524 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị lệch lạc khớp cắn loại I angle, răng chen chúc bằng hệ thống mắc cài tự buộc và dây cung mở rộng sang bên, không nhổ răng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng không đối chứng, đánh giá kết quả trước sau được thực hiện trên 38 bệnh nhân được chẩn đoán sai lệch khớp cắn Angle I. Bệnh nhân được kiểm tra các chỉ số về PAR, độ rộng cung hàm, các chỉ số về mô cứng và mô mềm trên phim sọ nghiên trước và sau điều trị. Các thông số trên được thu thập, phân tích và kiểm định bằng các test phù hợp. Kết quả nghiên cứu: khấp khểnh răng không còn sau điều trị, hầu hết bệnh nhân có cải thiện PAR(W) ở mức độ tốt; độ rộng cung hàm tăng sau điều trị; các chỉ số về mô cứng và mô mềm hầu hết không thay đổi; 100% đối tượng nghiên cứu có kết quả điều trị tốt.
#sai khớp cắn loại I Angle #không nhổ răng #mắc cài tự buộc #dây cung mở rộng.
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA TÁC ĐỘNG ÂM NHẠC TẦN SỐ THẤP ĐẾN BỆNH NHÂN NHỔ RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 541 Số 3 - Trang - 2024
Đặt vấn đề: Nhiều nghiên cứu đã cho thấy âm nhạc tần số thấp giúp giảm huyết áp, nhịp tim, nhịp thở của bệnh nhân trong quá trình điều trị nội nha. Tuy nhiên, vai trò cân bằng tâm lý và giảm đau của âm nhạc tần số thấp trên bệnh nhân nhổ răng khôn hàm dưới chưa được thực hiện ở Việt Nam. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá tác động của âm nhạc tần số thấp đến sự hài lòng của bệnh nhân khi nhổ răng khôn hàm dưới. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nửa miệng có can thiệp lâm sàng trên 105 bệnh nhân có răng khôn hàm dưới được chỉ định nhổ đến khám tại phòng khám Răng Hàm Mặt, Bệnh viện Hoàn Mỹ Vạn Phúc 2, tỉnh Bình Dương. Kết quả: Tổng cộng 105 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, với độ tuổi trung bình là 33,1 ± 10,14, nữ giới chiếm 59%. Phần lớn bệnh nhân có mức độ lo âu nhẹ đến trung bình khi nhổ răng khôn theo phân loại Corah, trong đó mức độ lo âu sau nhổ răng ít hơn so với trước nhổ với điểm lo âu trung bình là 18,50 ± 6,50 so với 20,70 ± 5,84 (p=0,001). Đo mức độ đau kết hợp Wong-Baker Faces và đo mức độ đau bằng lời nói sau nhổ răng đều thấp hơn đáng kể so với trước nhổ răng (2,42 ± 1,43 so với 2,90 ± 1,07, p=0,001) và (1,65 ± 1,23 so với 2,12 ± 1.24, p=0,001). Các bệnh nhân được nghe nhạc tần số thấp khi nhổ răng khôn đều có cải thiện đáng kể về mức độ đau và lo âu so với bệnh nhân không nghe nhạc. Kết luận: Phần lớn bệnh nhân nhổ răng khôn hàm dưới có mức độ lo âu nhẹ và trung bình khi nhổ răng. Mức độ đau và lo âu giảm ít hơn sau nhổ răng so với trước nhổ. Các bệnh nhân được nghe nhạc tần số thấp khi nhổ răng đều có cải thiện đáng kể về mức độ đau và lo âu so với bệnh nhân không nghe nhạc
#: nhổ răng #răng khôn hàm dưới #hàm dưới #lo âu #nhạc tần số thấp
SO SÁNH HIỆU QUẢ GÂY TÊ CỦA ARTICANIE 4% VỚI LIDOCAINE 2% TRONG PHẪU THUẬT NHỔ RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI
Mục tiêu: So sánh hiệu quả gây tê của Articanie 4% với Lidocaine 2% trong phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc, có đối chứng trên 120 bệnh nhân (BN) gây tê bằng hai nhóm thuốc tê trong phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới tại Khoa Răng miệng - Bệnh viện Quân y 103 từ tháng 01 - 8/2022. Kết quả: Liều trung bình thuốc tê tính theo mL của nhóm gây tê bằng Articaine thấp hơn so với liều trung bình tính theo đơn vị mL của nhóm gây tê bằng Lidocaine. Thời gian khởi phát tê của thuốc tê Articaine sớm hơn Lidocaine. Thời gian duy trì tê trung bình của thuốc tê Articaine 4% dài hơn so với thời gian duy trì tê của nhóm Lidocaine 2%. Tỷ lệ BN cần bổ sung thêm thuốc tê và liều lượng thuốc tê ở nhóm gây tê bằng Articaine thấp hơn so với nhóm gây tê bằng Lidocaine. Kết luận: Articaine 4% là thuốc tê có hiệu quả gây tê nhanh, kéo dài. Tỷ lệ phải gây tê bổ sung thấp và giảm đau hiệu quả hơn so với Lidocaine 2% trong phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới.
#Articaine 4% #Lidocaine 2% #Phẫu thuật nhổ răng
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ XÁC ĐỊNH TÌNH TRẠNG ĐỘT BIẾN EGFR-T790M GÂY KHÁNG EGFR-TKIS THẾ HỆ THỨ NHẤT Ở NGƯỜI BỆNH UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ BẰNG KỸ THUẬT SINH THIẾT LỎNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 522 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm xác định tình trạng đột biến EGFR-T790M gây kháng EGFR-TKIs thế hệ thứ nhất ở người bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ bằng kỹ thuật sinh thiết lỏng. Đối tượng: Gồm 31 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ có đột biến EGFR (+) đã điều trị bước 1 bằng thuốc EGFR- TKIs thế hệ 1, được làm sinh thiết lỏng tìm đột biến gen EGFR-T790M. Kết quả: Bệnh nhân nghiên cứu chủ yếu trên 60 tuổi (64,5%) trong đó tỉ lệ nam: nữ xấp xỉ bằng nhau, có đến 58,1% số bệnh nhân không hút thuốc lá. Thời gian trung bình xuất hiện kháng TKIs thế hệ 1: 11,9 ± 3,4 tháng (dao động từ 7-20 tháng). Mệt mỏi (96,8%) và sụt cân (87,1%) là triệu chứng toàn thân chiếm tỷ lệ cao nhất. Đau ngực (77,4%) là triệu chứng hô hấp gặp nhiều nhất, ít gặp nhất là ho máu (12,9%). Số lượng bệnh nhân có kích thước u từ 2-3cm là cao nhất, chiếm tỷ lệ 32,3%, có tới 9,7% số bệnh nhân có kích thước u >7cm. Tỷ lệ xuất hiện đột biến EGFR- T790M phát hiện bằng phương pháp sinh thiết lỏng là 35,5%, có tới  64,5% bệnh nhân có bệnh tiến triển nhưng kết quả sinh thiết lỏng không có đột biến gen EGFR- T790M. Trung bình thời gian sống thêm bệnh không tiến triển  giữa nhóm có mang đột biến EGFR-T790M (11,82 tháng; 95%CI 9,22-14,42) với nhóm không mang đột biến EGFR-T790M (11,95 tháng; 95%CI 10,44-13,46) không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Tỷ lệ bệnh nhân có đột biến EGFR-T790M bằng phương pháp sinh thiết lỏng có phần cao hơn những nghiên cứu khác trên thế giới. Chưa ghi nhận các yếu tố ảnh hưởng đến sự xuất hiện đột biến EGFR - T790M,  cũng như chưa ghi nhận ảnh hưởng đến thời gian sống thêm bệnh không tiến triển (PFS) của đột biến này.
#EGFR-T790M #ung thư phổi không tế bào nhỏ #EGFR-TKI
Tổng số: 37   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4